Lãnh thổ Indiana (
tiếng Anh: Indiana Territory) từng là một
Lãnh thổ hợp nhất có tổ chức của
Hoa Kỳ, tồn tại từ ngày 4 tháng 7 năm 1800 cho đến 7 tháng 11 năm 1816 khi phần phía nam của lãnh thổ được phép gia nhập liên bang để trở thành
tiểu bang Indiana.Lãnh thổ Indiana được thành lập theo một đạo luật tổ chức của
Quốc hội Hoa Kỳ và được tổng thống
John Adams ký thành luật vào ngày 7 tháng 5 năm 1800, có hiệu lực vào ngày 4 tháng 7 năm đó. Đây là lãnh thổ mới đầu tiên được thành lập từ đất đai của
Lãnh thổ Tây Bắc, một lãnh thổ được tổ chức vào năm 1787 theo
Sắc lệnh Tây Bắc. Ban đầu lãnh thổ rộng khoảng 259,824 dặm vuông Anh (672,94 km2) nhưng bị giảm diện tích đến hai lần khi nó được phân chia thêm thành các lãnh thổ mới.Lãnh thổ này thoạt đầu do
William Henry Harrison coi quản. Ông là người lo việc thương thuyết với các bộ lạc bản địa Mỹ để mở rộng các phần đất lớn của lãnh thổ cho người định cư da trắng. Năm 1810, một chính quyền dân cử được thành lập khi lãnh thổ tiếp tục tăng dân số, phát triển hệ thống đường sá căn bản, hệ thống giáo dục và chính quyền. Vào lúc
Chiến tranh Tecumseh bùng nổ, lãnh thổ nằm ngay tại tuyến đầu của cuộc chiến. Harrison lãnh đạo một lực lượng quân sự đối đầu mở màng cho
trận Tippecanoe, và sau đó là cuộc xâm nhập
Canada trong cuộc
Chiến tranh 1812.
Thomas Posey được bổ nhiệm cho chức vụ thống đốc bỏ trống nhưng đảng đối lập, do nghị sĩ
Jonathan Jennings lãnh đạo, thống trị mọi công việc của lãnh thổ trong những năm còn lại của lãnh thổ và bắt đầu làm áp lực đòi được phép trở thành tiểu bang. Tháng 6 năm 1816, đại hội hiến pháp được tổ chức và chính quyền tiểu bang được thành lập. Lãnh thổ bị giải thể ngày 7 tháng 11 năm 1816 sau khi quốc hội thông qua một đạo luật cho phép thành lập tiểu bang
Indiana.